Tin tức Tin tức quốc tế

Phiên đấu giá Nghệ Thuật Việt Nam nhà Aguttes tại Pari “Pháp”, lúc 14:00 ngày 22/05/2024 đã diễn ra phiên đấu giá cực kỳ hấp dẫn: Thang Trần Phềnh – Lê Phổ - Mai Trung Thứ – Vũ Cao Đàm & Alix Aymé.

Nghệ thuật Việt Nam

THANG TRẦN PHỀNH (1895-1973) Người học giả đọc trước mặt người làng, khoảng năm 1934 Mực và màu trên lụa, ký tên Trần Phềnh và ghi chú ở phía trên bên phải 75 x 51,5 cm - 29 1/2 x 51 1/2 in. Giá ước lượng ban đầu: 50000 - 80000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 452 000 EUR .

Thang Trần Phềnh (1895-1972) là một trong những họa sĩ nổi tiếng của làng mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ông cùng họa sĩ Lê Huy Miến, Nam Sơn là ba nhân vật tiên phong trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam cận - hiện đại.Ông bộc lộ năng khiếu hội họa từ bé. Từ năm 1911 đến 1915, ông nhiều lần đoạt giải nhất, nhì ở các cuộc đấu xảo (triển lãm, hội chợ cũ ở Hà Nội). Năm 1923, ông đoạt giải mỹ thuật của Hội khai trí Tiến Đức. Năm 1926, ông trúng tuyển đợt tuyển sinh khóa hai của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng lứa danh họa Tô Ngọc Vân, Vũ Cao Đàm... Sinh thời, danh họa Tô Ngọc Vân từng nhận xét: "Ông là họa sĩ mà trước kia chúng tôi rất phục tài, coi như cái đích tuyệt cao khó tới".

THANG TRẦN PHỀNH (1895-1973) Trưởng làng trên lưng ngựa hỏi đường, khoảng năm 1934 Mực và màu sắc trên lụa, ký tên Trần Phềnh và mô tả phía dưới bên phải 75 x 51,5 cm - 29 1/2 x 51 1/2 in. Giá ước lượng ban đầu: 50000 - 80000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 452 000 EUR .

Lê Phổ (1907 - 2001), tốt nghiệp khóa I trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (l'École des Beaux-Arts d'Indochine). Hội họa của Lê Phổ thừa hưởng văn hóa đa dạng, kết hợp không chỉ từ mỹ cảm trong tranh lụa thời Đường, Tống ở Trung Hoa mà còn chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu hội họa Tây Phương. Khi còn theo học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nghệ thuật châu Âu cũng chính là góc tiếp cận về đường hướng kỹ thuật để từ đó các sinh viên phát huy bản sắc dân tộc trong hội họa. Dưới bảo trợ của chính quyền thuộc địa, tác phẩm của ông được đưa đi trưng bày ở Đấu xảo Paris năm 1931, mở ra cơ hội để ông nhận học bổng vào trường mỹ thuật tại Pháp và từ Pháp viễn du khắp trời Âu tìm hiểu nghệ thuật. Năm 1937 ông quyết định định cư tại Pháp.

Lê Phổ (1907-2001) Những bông hoa hồng Sơn dầu trên lụa, ký tên ở phía dưới bên phải, có tiêu đề và số thứ tự 163 ở mặt sau 61 x 37,5 cm - 24 x 14 3/4 in. Giá ước lượng ban đầu: 50000 - 80000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 120 704 EUR .

LÊ PHỔ (1907-2001) tranh sơn dầu trên lụa, được ký tên ở phía dưới bên phải và có tiêu đề phía sau. Kích thước của nó là 18,4 x 14,1 cm.

LÊ PHỔ (1907-2001) Bức tranh hoa thị và cây cối, 1935 Sơn dầu trên vải, ký và đánh dấu ngày ở dưới bên phải 65,7 x 45,3 cm - 25 7/8 x 18 in. Giá ước lượng ban đầu: 350000 – 450000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 452 000 EUR .

LÊ PHỔ (1907-2001) Bó hoa cúc trên một mảnh đế Sơn dầu trên lụa, ký tên ở dưới bên phải 37,8 x 55 cm - 14 7/8 x 21 5/8 in. Giá ước lượng ban đầu: 40000 - 60000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 111 520 EUR .

Danh họa Mai Trung Thứ hiện là họa sĩ đang nắm giữ kỷ lục về giá cho một tác phẩm tranh Việt với mức 3.1 triệu đô - tác phẩm “chân dung cô Phượng”. Ông sinh ngày 10.11.1906 tại tỉnh Kiến An, nay là Hải Phòng, miền Bắc Việt Nam. Cha ông là Mai Trung Cát, Tổng đốc Bắc Ninh bấy giờ. Năm 19 tuổi, Mai Trung Thứ đỗ khóa đầu Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và là một trong những học trò đầu tiên tốt nghiệp ra trường năm 1930. Sau đó, ông được bổ nhiệm trở thành giáo viên dạy vẽ tại trường Trung học Khải Định (nay là trường Quốc học Huế). Trong khoảng thời gian sinh sống tại Huế, ông đã nghiên cứu nhã nhạc cung đình và chơi độc huyền cầm, đàn nguyệt và đàn tranh. Cùng với đó, ông còn tham gia minh họa cho một số tạp chí và tham dự cuộc thi thiết kế tem bưu chính. Trong thập niên 1930, Mai Trung Thứ nhiều lần cùng các họa sĩ khác có tranh trưng bày ở nhiều nơi trên thế giới như ở Ý (Rome 1932, Milan 1934, Naples 1934), ở Bỉ (Brussels 1936), ở Mỹ (San Francisco 1937). Cùng năm 1937, ông tham gia triển lãm thuộc địa tại Paris và quyết định sinh sống tại đây cho tới hết đời.

Mai Trung Thứ tranh được vẽ bằng mực và màu trên lụa, ký tên và ghi ngày ở góc trên bên phải. Kích thước của tác phẩm là 22 x 47 cm.

Mai Trung Thứ năm 1952 Mực và màu trên lụa, ký và ngày ở phía trên bên phải, ký vào mặt sau và đặt tiêu đề 17,2 x 29,7 cm - 6 3/4 x 11 3/4 in.

MAI TRUNG THỨ (1906-1980) Thư pháp, 1979 Mực và màu trên lụa, ký và đánh dấu ngày bên phải trên cùng. Trong khung gốc được tạo bởi nghệ sĩ. Theo yêu cầu của nghệ sĩ, tác phẩm gốc này đã được chọn để sao chép vào khoảng năm 1980. 46,5 x 26,5 cm - 18 1/4 x 10 3/8 in.

Cao Đàm (1908 - 2000) Soi chiếu từ khía cạnh du nhập, phản tư và giao thoa văn hóa với Tây phương, các sáng tác của Vũ Cao Đàm là sự nối dài của hai nền văn hóa trên hành trình khai phá ngôn ngữ nghệ thuật của ông với những chủ đề gần gũi. Vũ Cao Đàm (1908 - 2000), tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và rời Việt Nam bắt đầu hành trình viễn du năm 1931. Ông nhận học bổng du học tại Trường Mỹ thuật ở Bảo tàng Louvre Pháp (L'École du Louvre) năm 1932. Trong sự nghiệp nghệ thuật của Vũ Cao Đàm, có hai địa hạt ông nhận được nhiều đánh giá cao của giới chuyên môn là điêu khắc (tượng đất nung, tượng đồng khắc họa chân dung thiếu nữ, bè bạn, người thân, các giảng viên, con vật,...) và tranh vẽ trên chất liệu đa dạng, mang ảnh hưởng từ nhiều nguồn văn hóa khác nhau.

VŨ CAO ĐÀM (1908-2000) Hoa, 1957 Sơn dầu trên tấm gỗ ký tên, địa điểm và ngày ở dưới cùng bên trái, ký tên, đặt tựa đề, địa điểm Vence và ngày ở mặt sau 61.5 x 38,5 cm - 24 1/4 x 15 1/8 inch.

VŨ CAO ĐÀM (1908-2000) Mẹ và con Mực và màu trên lụa, ký tên ở góc dưới bên phải, có tiêu đề và số thứ tự ở mặt sau 54,8 x 45,2 cm - 21 5/8 x 17 3/4 in. Giá ước lượng ban đầu: 140000 – 200000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 177 120 EUR.

VŨ CAO ĐÀM (1908-2000) Sự sinh đẻ, 1944 Mực và màu trên lụa, ký và ghi ngày phía dưới bên phải 60 x 46,4 cm - 23 5/8 18 1/4 in. Giá ước lượng ban đầu: 300000 – 500000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 528 560 EUR.

VŨ CAO ĐÀM (1908-2000) Cô gái Annamite, người mẫu là Paul Reynaud Đồng đúc với lớp patina màu xanh, ký tên trên đế phía bên trái 37 x 15.8 x 19 cm - 14 5/8 x 6 1/4 x 7 1/2 in. Giá ước lượng ban đầu: 80000 – 120000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 150 880 EUR.

Alix Aymé (Alix Angèle Marguerite Hava) sinh năm 1984 tại Marseille, miền nam nước Pháp. Là một họa sĩ nữ hiếm hoi ngoại quốc tới khám phá và gắn bó lâu dài với văn hóa Việt Nam thông qua con đường nghiên cứu, sáng tác hội họa, Alix Aymé đã để lại cho hậu thế các tác phẩm vừa khái quát hiện thực của nghệ thuật châu Âu ngấm sâu trong bản ngã, vừa nâng cao giá trị bền bỉ của nghệ thuật Á Đông qua những trải nghiệm viễn du khắp chốn. Bà từng có dịp ghé thăm Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và dành nhiều tình cảm ở mảnh đất Đông Dương. Đây là nơi đem đến cho bà không chỉ những đề tài sáng tác mới mà còn ươm trong bài một nội tâm sâu sắc muốn khai phá tường tận những chất liệu phương Đông. Trong thời gian ở tại Việt Nam, bà cũng tham gia giảng dạy tại trường Quốc học Huế (1928), trường Trung học Albert Sarraut (1931) và trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Các đống cỏ gần ngôi làng Verni với các phần được vàng, ký tên ở góc dưới bên phải 38 x 46,2 cm - 15 x 17 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Gia đình và động vật, khoảng năm 1940 Mực và màu trên lụa, ký tên ở góc dưới bên trái 29 x 43 cm - 11 3/8 x 16 7/8 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Bức tranh hoa quả, khoảng năm 1935 Sơn nước trên lụa 39,5 x 45 cm - 15 1/2 x 17 3/4 in. Giá ước lượng ban đầu: 10000 – 15000 EUR, Kết quả đấu giá thành:107 584 EUR.

ALIX AYMÉ (1894-1989) Đứa trẻ nhỏ của Trung Quốc, khoảng năm 1938 Mực và màu nước trên giấy gạo, ký và ghi tiêu đề ở góc dưới bên trái 29,8 x 62,2 cm - 11 3/4 x 24 1/2 in.

ALIX AYMÉ (1894-1989) Một phụ nữ và một đứa trẻ trong một khu vườn tre.Mực và màu trên lụa, ký tên ở phía dưới bên phải 34 x 50 cm - 13 3/8 x 19 3/4 inch

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Bức tranh Đại Đạo Mực và màu trên lụa, ký tên ở góc dưới bên phải 45,3 x 36 cm - 17 7/8 x 14 1/8 in.

ALIX AYMÉ (1894-1989) Bức họa trẻ con Mực và màu trên lụa, ký tên ở dưới giữa và có hai con dấu ở góc dưới bên phải 21,3 x 14,7 cm - 8 3/8 x 5 3/4 in.

ALIX AYMÉ (1894-1989) Em bé cầm đồ chơi Tranh màu nước và bút chì trên giấy, ký tên ở phía dưới bên phải 27,7 x 23 cm - 10 7/8 x 9 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Bức chân dung của bé gái, Bản vẽ sơ bộ cho một tác phẩm trên sơn mài Bút chì trên giấy, ký tên ở phía dưới bên trái 46,8 x 35,5 cm - 18 3/8 x 14 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Nhà ở Vientiane Bút chì đen và màu trên giấy, được đặt ở góc dưới bên trái và mang một chữ ký AF 22,8 x 30,4 cm - 9 x 12 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Lời cầu nguyện tại đền thờ, khoảng năm 1928 Sơn dầu trên bìa cứng, có chữ ký Alix de Fautereau được gắn ở phía dưới bên trái, đánh số 32, 70 và 18 ở mặt sau 50 x 32,7 cm - 19 3/4 x 12 7/8 inches

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Sự than vãn Sơn mài với điểm nhấn màu và vỏ trứng. Tấm bên phải của bức tranh ban đầu được trình bày trong dạng đôi. 63 x 31,8 cm - 24 3/4 x 12 5/8 in.

ALIX AYMÉ (1894 - 1989) Trò chơi Mực và màu trên lụa, ký tên ở mặt sau và đánh số "5" 34,5 x 17,2 cm - 13 8/8 x 6 3/4 inches

Điều thú vị nhất trong phiên đấu giá hôm nay, là lot số 7 của tác giả Trịnh Hữu Ngọc, họa sĩ sinh năm 1912 theo học khóa 9 Đông Dương đã bất ngờ đạt con số rất cao, sau khi thành giá bao gồm cả phí thuế đã đạt 203,180eur. Đây là một bức tranh lụa sáng tác thập niên 30, thời kỳ này họa sĩ sáng tác một số tác phẩm trên lụa hiếm hoi, sau này nhiều người còn nghĩ họa sĩ Trinh Hữu Ngọc không sáng tác tranh lụa.

­­­­

Trịnh Hữu Ngọc (1912-1997) Cô gái trẻ mơ mộng suy tưởng về người yêu, 1936 Mực và màu trên lụa, có chữ ký, tiêu đề, và ngày ở phía trên bên phải 66 x 47 cm - 26 x 18 1/2 in. Giá ước lượng ban đầu: 8000 – 12000 EUR, Kết quả đấu giá thành: 203 180 EUR.

Tiến Bắc