Mai Trung Thứ (1906 - 1980) hay còn được gọi là Mai Thứ sinh ngày 10.11.1906 tại tỉnh Kiến An, nay là Hải Phòng, miền Bắc Việt Nam. Cha ông là Mai Trung Cát, Tổng đốc Bắc Ninh bấy giờ. Năm 19 tuổi, Mai Trung Thứ đỗ khóa đầu Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và là một trong những học trò đầu tiên tốt nghiệp ra trường năm 1930. Sau đó, ông được bổ nhiệm trở thành giáo viên dạy vẽ tại trường Trung học Khải Định (nay là trường Quốc học Huế). Trong khoảng thời gian sinh sống tại Huế, ông đã nghiên cứu nhã nhạc cung đình và chơi độc huyền cầm, đàn nguyệt và đàn tranh. Cùng với đó, ông còn tham gia minh họa cho một số tạp chí và tham dự cuộc thi thiết kế tem bưu chính. Trong thập niên 1930, Mai Trung Thứ nhiều lần cùng các họa sĩ khác có tranh trưng bày ở nhiều nơi trên thế giới như ở Ý (Rome 1932, Milan 1934, Naples 1934), ở Bỉ (Brussels 1936), ở Mỹ (San Francisco 1937). Cùng năm 1937, ông tham gia triển lãm thuộc địa tại Paris và quyết định sinh sống tại đây cho tới hết đời.
Quãng thời gian ở Việt Nam, trong tranh sơn dầu của ông đa phần khắc họa cảnh sinh hoạt bình dị của nông thôn Việt Nam, phong cảnh trữ tình của cố đô Huế và các vùng phụ cận như mái đình ven hồ, núi Ngũ Hành Sơn cũng như hình ảnh các học giả, thiền sư thiếu nữ Việt. Đặc biệt, trong số các sáng tác ở giai đoạn này, trong tranh thường xuất hiện dáng hình của một thiếu nữ xinh đẹp có khuôn mặt mềm mại. Người con gái ấy tên Phượng (trong nhiều tư liệu có đề cập nhân vật tên Phương, cùng tên của con gái ông sau này). Một trong số các tác phẩm vẽ nhân vật kể trên - bức “Chân dung cô Phượng” đã được triển lãm tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1930 và Triển lãm Thuộc địa năm 1931 tại Paris, Pháp. Sau triển lãm, bức tranh được mua lại bởi một nhà đầu tư gốc Pháp và chuyển nhượng sang bộ sưu tập tư nhân của bà Dothi Dumonteil - một người Pháp gốc Việt tên thật là Đỗ Thị Lan. Năm 2021, cũng chính bức tranh này được đưa ra đấu giá tại Sotheby’s Hồng Kông ngày 18/04/2021 và đạt mức giá kỷ lục 3.1 triệu đô, trở thành kiệt tác đắt giá nhất của mỹ thuật Việt Nam trên thị trường giao dịch công khai.
Cũng trong một bức họa màu dầu khác của Mai Trung Thứ vẽ hình ảnh người thiếu nữ mặc tà áo dài xanh quen thuộc đội nón đứng bên dòng sông ban trưa, nhiều nhận định đã được đưa ra, cho rằng ông vẽ cô Phượng. Bức tranh cũng nằm trong số rất ít các tác phẩm sơn dầu của ông được đưa ra đấu giá và được sưu tập với 1.57 triệu USD ngày 14/12/2021.
Những năm đầu ở Pháp, Mai Trung Thứ đã có sự cải biên trong phong cách hội họa của mình bằng cách chuyển từ sơn dầu sang tranh lụa. Từ nền tảng là các sáng tác sơn dầu được vẽ chủ yếu trong khoảng thời gian còn ở Việt Nam, khi sang tranh lụa, ông vẫn sử dụng kỹ thuật vẽ lụa truyền thống nhưng tự tay làm khung cho các tác phẩm của mình. Ở giai đoạn chuyển tiếp này, ông có nghiên cứu và vẽ một số chân dung của người phương Tây trên chất liệu lụa Á châu.
Trong suốt hơn 40 năm ở Pháp, ngoài những sáng tác vẽ nhân vật là người nước ngoài nói trên, ông chủ yếu vẽ bằng ký ức, về các cô thiếu nữ, trẻ em, tình mẫu tử và khung cảnh nước nhà. Những mái lá, những đền đài hay những thú vui như tao nhã tản bộ, chơi đàn, làm thơ, vãn cảnh dưới hiên nhà hay thưởng trà dưới ngòi bút của ông rất trữ tình và giàu tính tự sự.
Vào những năm 1940, tranh lụa của ông đặc trưng bởi các thiếu nữ được mô tả với gương mặt kiều diễm, mũi cao, cằm nửa vầng trăng trong trang phục có lúc là tà áo dài, quàng khăn, đội nón, đôi khi xúng xính trong tấm áo bà ba. Các sáng tác thuộc giai đoạn này có tính chuyển động cao, khắc họa ở những chi tiết nhỏ nhưng mang lại một tổng hòa cân đối và nhiều liên tưởng.
Từ những đường uốn lượn của chiếc khăn quàng hờ trên tay, trên cổ, tấm rèm khẽ đung đưa bên ô cửa tới hướng của cành cây, ngọn cỏ đều được Mai Trung Thứ vô cùng trau chuốt. Trong tranh vì vậy, không tạo cảm giác tôn thờ chân dung nhân vật mà cái hay của họa sĩ là tạo ra được hậu cảnh, một bối cảnh thiên nhiên giàu cảm xúc, chan chứa, gầy dựng nên một tổng thể đẹp bởi nhiều yếu tố và truyền tải góc nhìn lý tưởng về văn hóa Việt Nam.
Trong một số sáng tác thời kỳ này, ông cũng đưa vào những hoạt cảnh như thiếu nữ chơi đàn. Đây vốn là một chủ đề khi ở Việt Nam ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu. Những năm ở Huế, học cũng như chơi được sáo trúc và độc huyền cầm với ông đã trở thành một mạch nguồn cảm hứng, một nền tảng để phát triển bản thân. Sau khi sang Pháp, có dịp ông vẫn biểu diễn nhạc cụ Việt Nam. Chính cá nhân ông cũng từng chia sẻ tại một cuộc phỏng vấn về triển lãm tranh năm 1967 tại Deauville thuộc vùng Normandy, Pháp rằng ông đặc biệt thích nghe bản thu âm âm nhạc truyền thống nước nhà khi sáng tác tranh vẽ. Đây cũng là một chủ đề được ông yêu thích và thường xuyên kết hợp vào tác phẩm của mình.
Từ những năm 1950 trở đi, tranh lụa của Mai Trung Thứ dần có sự thay đổi về giải phẫu tạo hình nhân vật. Lối vẽ này càng phổ biến hơn trong tranh ông trong những năm 1960. Nhân vật được khắc họa vẫn thường là phụ nữ, trẻ em. Hoạt cảnh ông đặc tả thường vui vẻ như đón tết, học bài hay đi tắm. Tạo hình nhân vật được ông đơn giản hóa tối đa, mặt tròn, mũi ngắn, dáng hình rất thơ ngây và màu nền thiên về gam màu trung tính, không đặc tả nhiều như trước. Có thể đây là kết quả của quá trình tiếp biến văn hóa nghệ thuật Tây phương với Mai Trung Thứ. Những năm này, ông nghiên cứu và lấy nhiều tham chiếu từ hội họa Phục Hưng.
Sang giai đoạn những năm 1970, hội họa của Mai Trung Thứ có một số sáng tác chuyển thể nhân vật nổi tiếng của hội họa thế giới lên bảng màu tranh lụa Việt Nam và vẫn tôn lên bản sắc dân tộc. Những bức vẽ được Mai Trung Thứ lấy cảm hứng từ nàng Mona Lisa trong tuyệt tác vẽ từ thế kỷ 16 của Leonardo da Vinci hay “La Grande Odalisque” vẽ năm 1814 của Jean Auguste Dominique Ingres giống như một cuộc đối thoại giữa mỹ học châu Âu và văn hóa Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “La Joconde” (Mona Lisa) của ông được đưa ra giao dịch công khai trong phiên đấu ngày 24/05/2021 của Christie’s Hồng Kông, đạt mức giá 5.625.000 HKD (xấp xỉ 17 tỷ VNĐ).
Đồng thời, trong giai đoạn này ông cũng sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài gia đình gắn với hệ giá trị Nho giáo cùng tĩnh vật hoa và trái cây. Đặc trưng ở thời kỳ này là những bức vẽ trẻ em nô đùa đón tiết xuân sang hoặc cảnh trà đàm của ba thế hệ trong một gia đình.
Ngoài ra, xét riêng về các sáng tác về tĩnh vật của Mai Trung Thứ, tuy số lượng không nhiều, được vẽ rải rác trong thời gian ông ở Pháp nhưng có một sức hấp dẫn vô cùng lớn. Ngoài một không khí rất truyền thống được tạo lập, kỹ thuật vẽ lụa được ông phô diễn nhiều với ánh sáng mờ ảo đặc biệt phủ lên chủ thể. Tranh tĩnh nhưng giàu tình cảm, chất thơ và tinh tế.
Vào những năm 1940, tranh lụa của ông đặc trưng bởi các thiếu nữ được mô tả với gương mặt kiều diễm quý phái, mũi cao, cằm nửa vầng trăng trong trang phục tà áo dài, quàng khăn che mặt lấp lửng là đặc trưng. Các sáng tác thuộc giai đoạn này có tính chuyển động cao, khắc họa ở những chi tiết nhỏ nhưng mang lại một tổng hòa cân đối và nhiều liên tưởng. Trong tác phẩm này, có thể nhận thấy rõ nét sự quý phải của cô gái đang yểu điệu thướt tha trong chiếc khăn xuyên thấu choàng lên tóc, thể hiện sự cao quý tiết hạnh trong sáng của người phụ nữ, vẻ đẹp ấy được miêu tả nổi bật nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng qua tà áo dài màu cam, ông đã sử dụng tà yếm màu xanh rất lạ phối với mà cam và quần trắng tạo nét nổi bật sang trọng người phụ nữ.
Khi nhìn vào sự nghiệp của Mai Trung Thứ, suốt nhiều năm cống hiến cho nghệ thuật, ông bằng ngôn ngữ hội họa đã truyền tải ra thế giới một Việt Nam mộng mơ với những khung cảnh trữ tình và giàu tính tự sự. Và nói về tài năng của ông, quả thực như danh họa Lê Phổ (1907 - 2001) đã từng đưa ra nhận định: “Ít có ai tạo được thế giới sống động làm gợi nhớ quê hương Việt Nam thanh bình với bao ký ức của một tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo như Mai Trung Thứ”.
Lê Quang
Link nội dung: https://nghethuatvietnam.vn/mai-trung-thu-va-hoi-hoa-ve-mot-viet-nam-tho-mong-28.html