Tác phẩm: Cảnh chùa
Năm sáng tác: khoảng 1935 - 1936
Chất liệu: Sơn mài sáu tấm
Kích thước: 98 x 170 cm
Ký “Pham Hau” và triện vàng kiến trúc đình chùa ở mặt sau (con dấu của xưởng Phạm Hậu)
Phạm Hậu (1903 - 1994) nổi tiếng với tài năng và kỹ nghệ thực hành sơn mài thuần thục, đạt đến trình độ bậc thầy. Một trong những chủ đề thường xuất hiện trong tranh ông là phong cảnh đền chùa tọa lạc giữa thiên nhiên đặc trưng của miền Bắc Việt Nam. Tác phẩm “Cảnh chùa” hiện diện như minh chứng trong việc khéo léo nắm bắt ngoại cảnh, tổ chức bố cục khoáng đạt với bảng màu trầm mặc xen lẫn ánh vàng và chi tiết khảm vỏ trứng. Tranh mô tả khung cảnh chùa với lưng tựa núi, mặt hướng hồ và được nhìn từ điểm nhìn từ trên cao. Tác phẩm có chữ ký “Pham Hau” đi kèm triện vàng mô tả kiến trúc đền chùa, thường được biết tới như con dấu của xưởng Phạm Hậu. Xưởng này được ông thành lập ngay sau khi tốt nghiệp với đội ngũ thợ thủ công có tay nghề cao về phụ việc cho ông. Tác phẩm “Cảnh chùa” có thể là một trong những tác phẩm được vẽ trong khoảng thời gian 1935 - 1936, cùng thời điểm hiệu trưởng Victor Tardieu đặt hàng riêng 50 hộp vẽ sơn mài cho hợp đồng bên Pháp
Nội dung
Họa sĩ Phạm Hậu (1903 - 1994), tên đầy đủ Phạm Quang Hậu là một người con Hà Nội. Năm 1920 ông thi đỗ vào Trường Bách nghệ Hải Phòng - trường dạy nghề theo nguyên mẫu của châu Âu bấy giờ. Tại đây ông được đào tạo đầy đủ và bài bản qua các nghề từ tiện, nguội, đúc, hàn, phay, gò, đến cả nghề lái xe. Năm 1929, ông thi đỗ vào trường Mỹ thuật Đông Dương và học cùng các họa sĩ khác như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc, Trần Ngọc Quyên, Nguyễn Văn Long, Phạm Văn Thuần, Trường Đình Hiến và Nguyễn Đình Thước,... Phạm Hậu sử dụng thành thạo hầu hết các loại chất liệu hội họa, ông đa phần vẽ về phong cảnh, đời sống dung dị của người dân và đặc biệt được biết đến là một trong những bậc thầy nổi tiếng về sơn mài.
Kiệt tác thời kỳ miền Nam nước Pháp sắp được Sotheby’s Paris đưa ra đấu giá ngày 24.10.2025
Vào mùa xuân năm 1918, giữa những ngày Paris còn run rẩy dưới làn pháo kích của “Grosse Bertha”, Amedeo Modigliani (1884–1920) cùng người bạn, đồng thời là nhà buôn tranh Léopold Zborowski, rời thủ đô tìm về miền Nam nước Pháp. Họ dừng chân tại Cagnes-sur-Mer – nơi ánh sáng Địa Trung Hải chan hòa và bình yên – cùng những người bạn thân trong giới nghệ sĩ như Jeanne Hébuterne, Chaïm Soutine và Tsuguharu Foujita. Trong không khí sáng trong ấy, Modigliani tìm lại được sự tĩnh lặng nội tâm và khởi đầu một chuỗi sáng tác quan trọng mang tinh thần dịu sáng, nhân ái và tràn đầy chất thơ.
Tác phẩm “Bouquet au pot bleu” (Bình hoa xanh) được họa sĩ Bernard Buffet sáng tác năm 1978, chất liệu sơn dầu trên toan, kích thước 115 × 81,4 cm, ký tên “Bernard Buffet” ở góc phải dưới và đề năm “1978” ở góc trái dưới.
Trong dòng tranh lụa Việt Nam thế kỷ XX, Trần Duy (1920–2014) là một tên tuổi đặc biệt: không phô trương, không ồn ào, nhưng bền bỉ khẳng định vị thế qua những sáng tác mang vẻ đẹp tĩnh lặng và thấm đẫm tâm hồn Việt. Các tác phẩm “Chùa Thầy”, “Chùa Láng” và “Trúc và trăng đêm” là ba minh chứng tiêu biểu, như ba chương trong một khúc thi ca của sự yên bình, nơi hội họa trở thành ngôn ngữ của tâm linh và ký ức.
Trong phiên đấu giá ngày 29/9/2025 tại Sotheby’s Hong Kong, tác phẩm “Ladies in the Garden” (Những người phụ nữ trong khu vườn) của họa sĩ Lê Phổ đã được giới thiệu đến công chúng quốc tế. Bức tranh được thực hiện bằng chất liệu sơn dầu trên lụa, bồi trên ván, kích thước 60,7 × 37,7 cm, ký tên “Le Pho” ở góc phải dưới.
Nếu phần lớn công chúng biết đến họa sĩ Hoàng Sùng (1926–2018) qua những sáng tác về chợ quê, vùng cao hay đời sống kháng chiến, thì hai bức tranh lụa vẽ thiếu nữ dưới đây lại mở ra một thế giới khác – dịu dàng, sâu lắng và đậm chất Đông Dương. Ở đó, cái đẹp nữ tính, thanh khiết và ánh sáng trong veo của ký ức hòa vào nhau, trở thành một thứ thơ ca thị giác – nơi hội họa chạm đến miền tĩnh lặng của tâm hồn.
Những ngày cuối tháng 10, đầu tháng 11 vừa qua, một không gian hội họa đặc biệt tại tầng 1 Aqua Central, 44 Yên Phụ, Hà Nội đã đón con, cháu của cố họa sĩ Lê Quốc Lộc đến không gian trưng bày để ngắm tranh của cha ông mình. Họ tự hào khi được thưởng lãm tuyệt phẩm mà họa sĩ tài danh Lê Quốc Lộc đã dày công sáng tác khi là sinh viên năm cuối khoa Sơn mài khóa 12, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Trần Phúc Duyên, một họa sĩ tài hoa, đã gắn kết nghệ thuật Việt Nam với thế giới qua những tác phẩm độc đáo. Sinh ra trong một gia đình khá giả tại Hà Nội, ông theo đuổi hội họa từ nhỏ và khẳng định tên tuổi qua những tác phẩm phản ánh tinh thần Việt. Từ Hà Nội đến Paris, di sản nghệ thuật của Trần Phúc Duyên không chỉ là biểu tượng văn hóa Đông Tây mà còn là minh chứng cho sự kiên trì và tình yêu mãnh liệt với hội họa.
Nguyễn Tiến Chung sinh năm 1914 tại Hà Nội, quê gốc là làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông là một trong những họa sĩ tiêu biểu thuộc thế hệ thứ hai của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tốt nghiệp khóa XI (1935–1940), cùng thời với Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sáng và Nguyễn Tư Nghiêm. Trong suốt sự nghiệp, ông gắn bó với nhiều chất liệu truyền thống như lụa, sơn mài, sơn dầu và khắc gỗ, với phong cách tạo hình chặt chẽ, mạch lạc, màu sắc sâu lắng, thể hiện tinh thần Việt Nam rõ nét.
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống nghệ thuật tại Bắc Ninh, họa sĩ Nguyễn Như Hoành là người anh cả của họa sĩ Nguyễn Như Huân – người sau này được biết đến với bút danh Thái Hà, tên tuổi của dòng sơn khắc Việt Nam thế kỷ XX. Trong thời kỳ Pháp thuộc, Nguyễn Như Hoành từng là giáo viên mỹ thuật, gắn bó với nghề dạy học và truyền dạy kỹ thuật hội họa cho nhiều thế hệ học trò, góp phần gìn giữ tinh thần mỹ thuật dân tộc trong bối cảnh giao thoa Đông – Tây.
Tác phẩm “Vinh quy bái tổ” gợi lại vẻ đẹp trang nghiêm và rực rỡ của một nghi lễ cổ truyền Việt Nam – đoàn ngựa, lọng vàng, cờ xí, tiếng trống chiêng vang vọng giữa khung cảnh sơn thủy. Sắc son, vàng, nâu và tím than được xử lý tinh tế qua nhiều lớp sơn mài, mang đậm chất sắc màu cổ truyền thống tái hiện lại thời vàng son đông dương/